Cuộc đời có những quy luật khó tin nhưng có thật, đó là luật nhân quả, những câu truyện nhân quả báo ứng tưởng chừng chỉ có trong tiểu thuyết, nhưng lại diễn ra và tồn tại như một chân lý bất biến trong vũ trụ, vô luận con người tin hay không tin thì đều phải chịu nhận sự chế ước này.

Có người khi nghe nói đến nhân quả báo ứng liền lập tức tin tưởng, từ đó tự giác tuân thủ, có lối sống đạo đức. Nhưng cũng có người không tin và cũng không muốn nghe, cho rằng người khác không nhìn thấy những việc mình làm, không có ước thúc của tâm linh, tùy tiện gây ra nhiều tội nghiệp.

Đang xem: Những câu chuyện về nhân quả báo ứng đáng suy ngẫm

*

Cũng vì làm trái với thiên lý và lương tri nên phải gặp quả báo. Bài viết dưới đây xin chia sẻ lại những câu truyện có thật về Nhân quả báo ứng, theo dõi cùng Lý Khí nhé!

Nội dung chính

1. Truyện Nhân quả báo ứng

1. Truyện Nhân quả báo ứng

Truyện thứ nhất: Hãm hại người khác gặp ác báo

Lâm Hy là một người sống vào triều đại nhà Tống, đã từng giữ chức Trung thư xá nhân. Thời đó, Trung thư xá nhân là một chức vị quan trọng, không chỉ phụ trách các loại văn thư của lục phòng (lại, hộ, lễ, binh, hình, công), mà quan trọng hơn cả là khởi thảo chiếu lệnh của Hoàng đế.

Có thể bạn quan tâm

Tuy nhiên, không lâu sau khi Lâm Hy nhậm chức, do ông ta đã làm nhiều việc bất lương, cũng chính là nói phẩm hạnh của ông ta không có gì tốt đẹp, nên đã bị giáng chức, phải rời khỏi kinh thành.

Chương Đôn khi đó đang là Tướng quốc. Ông ta luôn muốn hãm hại những người chính trực muốn can gián Hoàng đế. Vì không tìm được người thích hợp để đảm nhận chức Trung thư xá nhân nên ông ta rất buồn phiền.

Đúng lúc này có người tiến cử Lâm Hy cho ông ta. Vừa hay Lâm Hy đến kinh thành nhậm chức tri phủ Thành Đô, thế là Chương Đôn liền triệu kiến ông ta, hứa hẹn với ông ta về việc phong quan tiến chức. Lâm Hy cho rằng đây là một cơ hội tốt nên đã đi theo Chương Đôn, dốc lòng dốc sức dùng mực bút để đả kích và gièm pha các nhân sĩ trực ngôn.

Lúc bấy giờ, các chiếu lệnh vu oan, giáng chức những người như Tư Mã Quang đều là do Lâm Hy khởi thảo, lời lẽ và cách hành văn “vô cùng thậm tệ”, người đương thời không ai là không phẫn nộ. Lâm Hy và anh em Tô Thức đã từng có giao vãng với nhau, ông ta đã từng miêu tả cha con Tô Thức bằng một câu đối như thế này:

“phụ tử dĩ văn chương quan thế, mại uyên, vân, tư mã chi tài; huynh đệ dĩ phương chính quyết khoa, quan triều, đổng, công tôn chi đối” (cha con đều đứng đầu về văn chương trong mỗi thế hệ, uyên thâm vô cùng, tài năng như họ nhà Tư Mã; anh em đều chính trực trong công việc triều chính, cương trực và trách nhiệm, sánh ngang với họ nhà Công Tôn).

Vậy mà khi soạn thảo chiếu lệnh để giáng chức Tô Thức, ông ta đã viết:

“Tô Thức, cùng với cha và em trai, đều tham lam và lạm quyền. Họ thường lừa dối người khác vì lợi ích bản thân.”

Chương Đôn đã đặt những người như Lâm Hy vào các chức vị quan trọng, kết thành một bè lũ gian tà, khiến nhiều đại thần bị đi đày ở Lĩnh Nam, rất nhiều người đã bị liên lụy. Không những vậy, Chương Đôn còn muốn giết tất cả những người bị đi đày, khiến họ tan cửa nát nhà. Người trong thiên hạ lúc bấy giờ đều biết rằng những trung thần kia là bị oan uổng.

Tống Triết Tông đã nói: “Trẫm tuân theo di chế của tổ tiên, chưa từng bao giờ giết hại đại thần, phải phóng thích họ ra và không được trị tội họ.” Do vậy, Chương Đôn và những người của ông ta không còn tiếp tục làm loạn được nữa.

Thực tế, Lâm Hy không phải là không nhận thức được những hành vi đê hèn của mình. Một lần nọ, sau khi thảo xong chiếu lệnh để gièm pha một người khác, ông ta đã ném cây bút xuống đất và nói:

“Danh dự và tiết tháo của ta đã bại hoại quá rồi!” Ông ta biết rõ rằng mình đang vu oan hãm hại người khác và việc này sẽ hủy hoại danh tiết của ông ta. Tuy nhiên, ông ta đã quá ham mê quan cao lộc hậu, giữa “danh tiết” và “quyền vị” thì ông ta lại lựa chọn “quyền vị”.

Sau khi Chương Đôn thất thế và bị bãi chức, Lâm Hy đã bị giáng chức nhiều lần. Sau này ông ta bị bệnh, mười đầu ngón tay của ông ta bị thối rữa và bị rụng hết, lưỡi cũng bị lở loét và rụng ra. Đó cũng là nhân quả báo ứng của Lâm Hy.

Truyện thứ 2: Người mẹ hành nghề sát sinh và cái chết oan nghiệt của cả gia đình

15 năm hành nghề buôn bán, giết mổ gia súc gia cầm, bà Nguyễn Thị Th. đã giết hàng vạn con gà, vịt, thỏ, chó… Vào mùa cưới hay dịp Tết, bà giết cả trăm con mỗi ngày, thu lãi hàng triệu đồng. Bà nhanh chóng trở nên giàu có. Cả làng ngưỡng mộ bà.

Thế nhưng, không ai có thể ngờ được, một ngày, hiểm họa đã giáng liên tiếp xuống nhà bà. Chồng bà bị chết chết bất đắc kỳ tử trong một vụ tai nạn rùng rợn. Con trai cả của bà bị điện giật chết đêm trước ngày đón dâu một hôm. Vài tháng sau, con trai út bị ung thư xương.

*

Của nả lần lượt đội nón ra đi. Đến lúc nhà cửa sạch sành sanh cũng là lúc nó vĩnh biệt cõi đời. Ngày hỏa táng con, bà xuống tóc đi tu. Bà muốn mượn tiếng mõ, lời kinh để quên đi nỗi đau tột cùng. Bà muốn nương nhờ cửa Phật để rửa bớt nghiệp ác mà bà đã gieo rắc suốt 15 năm.

Truyện thứ 3: Gia đình trả nghiệp về việc sát sinh động vật

Có một sư thầy tên gọi là thầy Giác Liên, trụ trì tại chùa Phước Hải, Tỉnh Vĩnh Long đã từng kể về những câu chuyện nhân quả mà chính thầy đã chứng kiến trong kiếp tu hành của mình.

Một trong nhiều câu chuyện hay được nhắc đến nhất đó là câu chuyện về một cậu bé tên Hiền, sống ngày qua ngày bằng việc xin ăn tại chợ Trà Vinh với hình dáng và thân thể giống như thân thể của một con bò.

Hiền được sinh ra và lớn lên trong một gia đình với nghề mổ bò truyền thống ở Trà Vinh. Ông nội của Hiền cũng nhờ nghề này mà đã trở nên khấm khá, giàu có. Một ngày nọ, trước khi chuẩn bị làm thịt một con bò cái, bỗng nhiên ông liền nằm thấy chiêm bao, trong giấc mơ có một người đàn bà đi đến bên ông và nhìn ông khóc lóc, van xin rằng: “Tôi van xin ông, ông làm ơn đừng giết tôi, hãy để tôi sinh con xong rồi thì ông có thể giết”.

Điều lạ là trong một đêm, không những ông chỉ mơ thấy một lần mà tới 3 lần cùng một giấc mơ. Ông bèn mang câu chuyện này đi kể cho vợ nghe thì người vợ có khuyên ông rằng không nên mổ thịt con bò này mà hãy tiếp tục nuôi nó để cho nó đẻ. Suy đi tính lại, không hiểu sao cuối cùng ông vẫn quyết định làm thịt nó để bán.

*

Sáng sớm hôm sau, con bò này kêu la to và khủng khiếp hơn so với nhiều con bò khác mà ông đã từng thịt, nó lăn lộn, giãy giụa tới mức bứt cả sợi dây trói. Cuối cùng thì nó vẫn phải chết, cái cảnh tượng của con bò khi đó khiến ông nội Hiền nhớ mãi cho đến sau này vẫn không thể quên được, chính là cái đầu nó cứ lắc lư qua lại mãi như thể nó vẫn đang còn sống.

Điều trùng hợp ở đây là một thời gian sau khi ông giết con bò đó thì con dâu ông trở dạ sinh đứa cháu nội đầu tiên – cháu đích tôn của ông. Sẽ không có gì đáng nói nếu như cháu của ông khi sinh ra không mang trên người những dị tật rất giống với hình dáng của một con bò. Đó là con vật môi thì bị sứt, mắt thì lồi chân tay thì cong queo không đi được, phải bò, riêng cái đầu thì cứ lắc lư qua lại không thôi.

Đứa trẻ đó chính là Hiền. Khi nhìn hình ảnh của cháu mình, người ông không thể nào không liên tưởng đến cái chết của con bò cái mà ông đã giết, đặc biệt là về động tác lắc lư cái đầu. Nhìn hình ảnh cháu và những chuyện đã qua, ông như đã hiểu nguyên nhân sâu xa vì sao mà cháu mình khi mới sinh ra đã bị như vậy.

Ông vô cùng hối hận và muốn sửa sai, muốn chuộc lại lỗi lầm của mình, ông quyết định bỏ cái nghề đã tồn lại từ lâu đời và là nguồn làm giàu của gia đình từ xưa đến nay. Ông bỏ hẳn việc sát sinh bò. Bên cạnh đó, vì lo chữa trị cho cháu, có bao nhiêu của cải, tiền bạc ông đều dốc hết. Tuy nhiên cậu bé vẫn phải sống và mang trên mình những dị tật như vậy.

Không những thế, cay đắng hơn, khi lên 10, Hiền đã phải lần lượt mất đi những người thân của mình vì ai cũng mang trọng bệnh và chết bất thình lình, em phải bò lê la ra chợ để xin ăn. Cứ mỗi lần xin ăn, không hiểu như có ai đó xui khiến, Hiền vừa lết vừa kêu gào, khóc lóc rất thảm thiết: “Xin mọi người, xin các chú các bác, các cô các dì đừng giết con, con là con bò…”.

Đây là một câu chuyện về luật nhân quả, về quả báo mà đối với mỗi người dân Vĩnh Long, câu chuyện này của sư thầy dường như in sâu vào tâm trí họ như những bài học về đạo lý, để biết cách sống và định hướng sống sao cho không đi theo vết xe đổ của những người được kể trong những câu chuyện của sư thầy.

Truyện thứ 4: Bị quả báo vì đập phá miếu thờ, làm ô nhục tổ tiên

Trong suốt quá trình mở rộng cuộc vận động, chính quyền ép buộc người dân phải phá hủy vô số đồ cổ, đền thờ. Tuy nhiên chỉ có duy nhất một ngôi miếu nhỏ và bài vị tổ tiên ở trong miếu đó là không một ai dám động đến. Nhưng có hai thanh niên trẻ trong làng thuộc dạng phá phách, hay vỗ ngực xưng tên, thẳng thừng tuyên bố rằng hai người họ sẽ đập tan cái miếu đó nếu không có ai dám đập.

Cuối cùng, ngôi miếu bị đập phá, bài vị tổ tiên còn bị 2 thanh niên kia dùng chân giẫm nát sau đó đem đến con sông ở trước thôn vứt đi. Sau khi đập phá xong, một người thì trở về nhà, người còn lại thì ngồi hóng mát và nghỉ ngơi ở ven sông.

*

Thanh niên trở về nhà, sau khi vừa về đến nhà bỗng dưng bị đau bụng quằn quại, khóc thét lăn lộn khắp nhà. Người mẹ của thanh niên này là một người vốn tin vào đạo Phật, chứng kiến cảnh con trai sau khi đập phá miếu thờ trở về nhà lại đột nhiên bị bạo bệnh, biết tính mạng con trai mình khó giữ nên bà đã thành tâm quỳ gối lê lết từ nhà đến tận ngôi miếu nhỏ vừa bị đập phá kia để thay con trai nhận tội và cầu xin thánh thần.

Riêng người thanh niên này sau khi bị đau bụng dữ dội cũng đã nhận ra mình đã bị quả báo, trong lòng anh ta cảm thấy vô cùng hối hận, ăn năn tự phát tâm kính trọng Phật. Sau đó kết quả thật khó tin, anh ta cảm thấy bụng mình giảm đau dần dần và sau đó hết hẳn. Biết mình được tha thứ, ngày đêm thành tâm đọc kinh thỉnh Phật.

Còn người thanh niên ngồi bên bờ sông nghỉ ngơi thì lại không được gặp may như vậy. Sau khi hóng mát và nghỉ ngơi xong, anh ta chuẩn bị đi về, ngay lúc anh ta vừa đứng dậy dù không vấp phải thứ gì nhưng đột nhiên lại bị ngã nhào xuống mặt đất. Anh ta luống cuống đứng dậy một cách cố gắng, thì bỗng nhiên phát hiện hai chân của mình bị uốn cong lại một cách vô lí, cho dù dùng hết sức lực như thế nào thì anh ta cũng không thể nào đứng thẳng dậy được.

Không những thế, hai chân của anh ta còn bị dính chập vào nhau ở một chỗ, không thể nào mở tách ra được. Chưa dừng lại ở đó, lưng của anh ta tự nhiên cũng bị gì và gập xuống, một cách khó tin, cứ thế đầu anh ta cứ áp sát, cắm xuống mặt đất mặc dù anh ta cũng đã cố hết sức để đứng thẳng lưng dậy nhưng bất lực.

Trên đường đi về, cứ như thế vừa đi anh ta phải dùng cả hai tay để chống xuống đất. Kể từ đó về sau, anh ta đều phải đi với tư thế này trong suốt quãng đời còn lại của mình, một cách vô cùng thống khổ. Động tác và dáng đi này của anh ta làm người khác liên tưởng tới động tác vừa đi vừa dập đầu vái Phật.

Mọi người trong thôn này đều cho rằng vì đập phá miếu, làm nhục và vứt bài vị tổ tiên mà đã bị báo ứng như thế. Anh ta phải chịu tư thế đi này trong suốt quãng đời còn lại của mình.

Truyện thứ 5: Chuyện nhân quả báo ứng có thật – Rắn báo oán

Sáng nay có người ở Việt Nam dẫn hai đứa bé tới gặp tôi. Họ nói sức khỏe chúng không được tốt, mong tôi giúp chúng mọi sự thuận lợi như ý cát tường. Hai đứa bé này thần kinh không bình thường. Tôi vừa nhìn đã nhận ra ngay, bèn hỏi chúng có từng sát sinh không? Sau khi mẹ chúng nghe tôi giảng giải một hồi, bà mới hiểu ra và kể:

Trước đây nhà có một cây đại thọ. Khi họ đem chặt cây thì thấy dưới cây có hai con rắn, chúng đã chui vào trong hang. Lúc đó, hai đứa bé này đã dùng nước sôi đổ vào hang cho hai con rắn chết.

Sau việc làm đó, con trai cả của họ tự nhốt mình trong phòng. Mấy ngày sau cháu ra ngoài thì phát bệnh thần kinh. Đứa con trai đầu như thế, đứa thứ hai cũng vậy. Cả hai đều bị bệnh thần kinh, bà mẹ hi vọng tôi có thể giúp họ hóa giải việc này.

Bệnh này liên quan tới sát sinh. Do họ hành xử tàn nhẫn, không có lòng từ bi. Hai con rắn đã chui vào hang rồi, thế mà họ còn đổ nước sôi hại chết. Hai con rắn này vốn là hai anh em, bị họ hại bỏng chết, thì bản thân họ cũng phát bệnh điên.

Nghiệp sát sinh lãnh báo ứng rất nặng. Cứ giết chóc rồi bị báo: Hỗ tương sát, hỗ tương báo, đây là việc rất bi thảm của thế giới.

Dù mọi người không hiểu, không tin là tạo nghiệp sát sẽ phải lãnh ác báo. Những chuyện nhân quả báo ứng, chuyện báo thù đền nợ không ngừng xảy ra. Tạo thành quốc chiến, tạo thành nghiệp sát hại lẫn nhau! Nghiệp sát càng sâu, tội tạo càng nặng, nên cứ giết chóc mãi không ngừng.

Truyện thứ 6. Chuyện nhân quả báo ứng có thật – Phá thai

Vào năm 1980. Một vị Giám đốc từ Đông Nam Á xa xôi đến Vạn Phật Thánh Thành cầu tôi cứu giúp. Ông mắc bệnh ung thư rất nặng! Tôi dẫn ông lên Chánh điện, cho phát lồ sám hối trước mười phương Chư Phật, Bồ tát và tứ chúng để cứu vãn nghiệp tội của ông. Ông kể mình phạm nhiều tội ác, từng ăn vô số thịt chúng sanh như óc khỉ, chân ngỗng v.v. Sau đó tôi hỏi:

– Ông có từng giết người không?

Ông nói: Tuyệt đối không! Nhưng con đã từng bảo bà xã phát thai!

Tôi giải thích:

– Vì vậy, ông phát bệnh nan y đáng sợ là do tất cả những sinh mạng này tìm đến đòi nợ ông!

Tôi xin nhắc nhở quý vị: Không nên phá thai và đừng bao giờ xúi bảo người phá thai. Bởi làm vậy cũng đồng tội giết người! Người trì giới thì có công đức trì giới. Kẻ phá giới thì có ác báo phá giới. Nói theo lý nhân quả, dù quý vị có thọ giới và giữ giới hay không, nhân quả luôn tồn tại vận hành! Hành vi sát sinh (giết thai nhi) là rất sai lầm.

Theo luật nhân quả, chắc chắn quý vị phải chịu báo ứng đền trả. Tất cả những việc sát sinh này chỉ làm tăng thêm lòng oán hận, chiêu vời những bệnh lạ quái ác vào thân. Kèm theo đó là những triệu chứng khác thường khó giải thích và không chữa được!

Bây giờ, ngoài ung thư còn có những bệnh nan y khác. Những bệnh này đầu tiên bắt nguồn từ phạm giới tà dâm, sát sinh, ăn cắp, nói dối và dùng chất say, hút chích các chất ma túy…

Khi mọi người đều giữ ngũ giới, thực hành thập thiện và ăn chay thì sẽ không có thiên tai. Ngoài ra còn được hưởng rất nhiều phước báo cực lớn. Thậm chí chính cái tâm trong lành sẽ khiến nhiều người có thần thông và khai mở ngũ nhãn.

Những câu chuyện nhân quả báo ứng là có thực, là hiện thân thuyết pháp, nhưng người thế gian không tin. Đa số còn dốc sức tạo ác, không biết ngưng sát, phóng sinh…

Nếu chúng ta muốn thế giới thái bình, thì mọi người nên giữ năm giới: Không sát, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu hay hút chích các chất ma túy. Nếu quý vị không tạo nghiệp xấu thì thế giới sẽ không có thiên tai, đau khổ, bệnh tật và người ta sẽ sống hạnh phúc.

*

Truyện nhân quả báo ứng hiện đời

Truyện thứ 7. Quả báo thê thảm chủ Lò mổ

Năm 2002, một chàng trai 28 tuổi, nửa khuya ra tay giết chết cha mẹ hơn sáu mươi tuổi của mình. Cặp vợ chồng già đang say ngủ thì bị con trói trên giường, sau đó y cắt cổ họ, máu văng trây dính tường, rơi vương vãi. Hung thủ ngay trong đêm đó đã chạy trốn, rồi bị bắt tại một khu phố nhỏ ở miền nam.

Hung thủ đã kết hôn, có một con trai. Ngay đêm xảy ra án mạng, cô vợ do hôm trước vợ chồng cãi nhau nên bồng con về nhà cha mẹ đẻ. Nhờ vậy hai mẹ con tránh được ác mộng thảm sát.

Xem bề ngoài, thì đây là vụ án rõ ràng, có chứng cứ vô cùng xác thực. Viện Kiểm sát đã lấy khẩu cung, toàn bộ chứng cứ hoàn chỉnh. Có đủ vật chứng, nhân chứng, tất nhiên phải nghiêm trừng, mau chóng phán quyết.

Lần xét xử đầu, án tử hình lập tức được phán ra, nhưng luật sư biện hộ nói: “Phạm nhân bị thần kinh nghiêm trọng” và yêu cầu tiến hành giám định thần kinh. Thời gian điều tra kéo dài, do kết quả chưa rõ, vì vậy mà án cứ kéo dây dưa.

Cuối cùng phải hoãn án tử hình lại để hai năm sau chấp hành. Luật sư của hung thủ lại khiếu nại tiếp nữa, nhưng bị bác bỏ. Xem như tới chung thẩm thì phán quyết xong, án này kết thúc.

Truyện thứ 8. Nhân quả báo ứng có thật: Những lời khai man rợ

Kể thì nghe nhanh gọn vậy chứ thực tế tính ra án này kéo dài tổng cộng bốn năm. Tôi phải nhọc nhằn điều tra tỉ mỉ, lấy chứng cứ đến 7-8 lần, hồ sơ tư liệu tích lũy dày cộm.

Hung thủ là con trai duy nhất, từ nhỏ được cưng chiều, tính tình cực kỳ hung dữ. Hung thủ kết hôn xong vẫn ở chung với cha mẹ, thường hay gây cãi luôn. Mấy ngày trước khi xảy ra án, cha mẹ cùng vợ hung thủ đã nổ ra xung đột tranh chấp.

Lý do là hung thủ đòi cha mẹ cho tiền mua nhà. Cha mẹ không cho và chê trách con trai là hạng bất tài vô dụng. Họ trách con không lo làm việc, khiến họ mất mặt với láng giềng! Chính điều này đã khơi gợi ác niệm giết người nơi hung thủ.

Thế nhưng, nhiêu đây có đủ để giải thích cho động cơ giết người của hung thủ chăng? Trên thế giới này những đứa con được cưng chiều, biến thành ngỗ nghịch. Rồi nảy sinh tranh chấp cùng gia đình liệu có bao nhiêu?

Vì sao hung thủ cứ khăng khăng muốn giết cha mẹ mình như thế? Trong hồ sơ, tôi phát hiện một đoạn khẩu cung cực kỳ kinh tâm, hung thủ khai báo như vầy:

 “Tôi muốn giết họ từ lâu rồi, vì họ rất vô dụng! Bảo cho tôi tiền mua nhà mà họ cũng không chịu, thế thì giết quách! Để làm chi? Tôi thảo kế hoạch từ mấy tháng trước lận.

Đầu tiên tôi nghĩ nên cho họ uống thuốc rầy, nhưng đi chưa tới tiệm thì tôi quay về, vì nghĩ thuốc rầy sẽ thiêu đốt ruột gan. Sau đó tôi hoạch định sẽ chở họ đến hồ nước chơi, rồi dìm chết họ. Nhưng tôi lại không thực hiện. Cuối cùng nghĩ tới suy lui, tôi thấy chỉ còn cách cắt cổ là hay nhất. Không quá đau đớn, lại mau chết”.

Nhân quả báo ứng có thật: Nhân quả không hư dối

Khi tôi đọc xong đoạn khẩu cung thì kinh hãi đến lạnh xương sống. Giết cha mẹ mà hắn bày tỏ điềm nhiên như thể giết gà vịt! Điều tra tỉ mỉ xong, tôi càng hết hồn khi phát hiện thêm tình tiết này:

Cặp vợ chồng nạn nhân có mở một lò giết gà, họ làm ăn buôn bán rất phát. Tôi ra chợ tìm hiểu thấy những người ở chợ thuật lại: Hai Ông bà khi hành nghề thường đem gà sống trói lại, treo lên dây thép.

Sau đó họ kẹp chặt đầu gà dùng dao cắt cổ nó. Máu gà cũng không bỏ phí, bán rất được tiền. Suốt đời họ nhờ sống bằng nghề này mà trở nên giàu có. Nghe nói kỹ thuật cắt cổ gà là do tổ tiên họ truyền lại.

Sở dĩ tôi nhớ kỹ việc này vì đây là vụ án khiến tôi bắt đầu có niềm tin đối với Phật pháp. Lúc mọi phân tích có được giải thích hợp lý, tôi càng tin sâu luật nhân quả và khắc cốt ghi tâm khi hiểu rõ nguyên nhân.

Do người chết cả đời hành nghề cắt cổ gà, nổi tiếng sát sinh có kỹ thuật. Bởi họ cắt cổ vật như thế, nên mới chiêu ách nạn bị đứa con trai duy nhất của mình cắt cổ lại. Câu chuyện nhân quả báo ứng này không khiến chúng ta kinh tâm động phách hay sao?

Lời người dịch:

Dịch tới đây tôi sực nhớ tới câu chuyện nhân quả báo ứng có thật của một pháp lữ quê ở Hà Nội: Gần nhà cô có một đôi vợ chồng nọ chuyên sống bằng nghề mổ heo bán thịt, kinh tế rất khá. Họ có đứa con trai độc nhất khoảng 15 tuổi, tính rất hiền.

Xem thêm:

Một hôm thằng bé đi học về, nó bỗng ra tay giết chết cha mẹ và xẻo thịt họ ném lung tung trên nền nhà. Sau đó nó bỏ đi lên lầu ngủ. Khi công an đến bắt, thằng bé vẫn còn ngái ngủ. Mọi người đều kinh hoàng vì cảnh thảm sát này và không sao giải thích được nguyên do.

Truyện thứ 9. Có thứ còn khủng khiếp hơn cái chết

Chúng ta thường quan niệm chết là xấu, là đáng sợ. Nhưng có trường hợp “không được chết” mới kinh hoàng bạt vía. Đây thực sự là hình phạt nặng nề còn hơn cả cái chết!

Công ty Khai thác Than đá” tại một tiểu trấn nọ xảy ra tai nạn sập hầm. Điều đáng lưu ý là Ông Triệu, giám đốc công ty, không mua bảo hiểm an toàn lao động gì. Ông do giao du mật thiết với các nhân vật quyền thế mà duy trì kinh doanh.

Ông Triệu có ô dù che chở rất mạnh, nên sau khi xảy ra tai nạn, thì địa phương khó điều tra thuận lợi. Vì vậy họ đành giao cho chúng tôi thụ lý vụ án nơi miền viễn xứ này.

Việc mỏ than nổ sập xông hơi độc làm một người chết và hai người bị thương. Thông thường thì các tai nạn xảy ra đều được dàn xếp ổn thỏa theo “quy luật ngầm”: Chỉ cần người chủ khéo léo xuất tiền bồi thường cho gia đình của công nhân là có thể cho qua.

Nhưng xui là, đúng vào lúc đó toàn quốc lại có lệnh đại kiểm tra, buộc phải thi hành nghiêm nhặt. Vì thế mà ông Triệu bị bắt. Lúc tôi và một trinh sát viên khác đi tìm ông Triệu đế lấy chứng cứ, thì nhân viên canh gác bảo tôi:

– Ông Triệu do bị tiểu đường nên được đưa vào bệnh viện rồi.

Tôi vội chạy đến “Y viện Bộ Tư pháp” để gặp ông Triệu. Thấy ông khoảng hơn 50 tuổi, vóc dáng khôi ngô, âm thanh hào sảng. Tính cách thập phần cứng cỏi mạnh mẽ, ngó bộ không dễ dàng hợp tác.

Ông ngồi trên giường, tỏ vẻ thờ ơ đối với những vấn đề tôi nêu lên. Bộ điệu lạnh nhạt chẳng thèm quan tâm, mãi tới khi tôi sắp đi, ông thẳng thừng tuyên bố:

– Chưa tới một tháng là có người bảo lãnh tôi ra khỏi đây rồi!

Ông nói không sai, do ban điều tra bị nhiều nguyên nhân cản trở, nên công việc tiến hành không thuận lợi. Cuối cùng án được giải quyết theo kiểu cho ông tại ngoại, chỉ giám sát nơi cư trú thôi.

Nhưng chính ngay đêm ông đang vui mừng hớn hở, tính mở tiệc ăn mừng thì bệnh tiều đường và chứng mật kết sỏi bỗng phát tác nghiêm trọng. Mặc dù Bộ Tư pháp lẫn Y viện chẳng hề có ý muốn lưu ông. Nhưng chính bệnh tật đã níu kéo và buộc ông phải lưu lại.

Từ đó trở đi, ông Triệu không còn rời bệnh viện được nữa. Qua hơn 4 tháng, vụ án này cuối cùng cũng được phán quyết: Ông Triệu bị phạt tù 6 năm.

Nhưng ông cũng không thể vào nhà giam, bởi sức khỏe càng lúc càng suy. Cuối cùng đành ở “Y viện Công an” mà chịu án.

Chuyện nhân quả báo ứng có thật: Sống không được, chết cũng chẳng xong

Vì lý do công việc, tôi luôn phải đến “Y viện Công an” tác nghiệp, nên thường gặp ông. Nhờ có tiền, ông vẫn được ngụ trong phòng đơn sạch sẽ. Mỗi lần gặp mặt, mắt ông mở rất to như chất chứa nhiều tâm sự. Có lần ông hỏi tôi:

-Anh tin chuyện nhân quả báo ứng không?

Tôi đáp:

– Đương nhiên là có! Vì tôi là Phật tử mà.

Ông nghe vậy thở dài, không nói gì thêm.

Được một dạo bệnh ông trở nặng, phải chuyển viện, giám ngục lo làm thủ tục cho ông ra ngoài. Rất kỳ lạ là, không những giám ngục lẫn Y viện chẳng muốn lưu ông. Mà ngay cả Diêm vương cũng chê, chẳng chịu thu nạp ông!

Lúc tôi gặp lại thì ông đã nằm trên giường bệnh gần tám tháng. Ông cao một mét tám nhưng thể trọng đã nhanh chóng sụt ký vùn vụt. Chúng tôi thường gặp mặt trò chuyện. Ông đối với tôi càng lúc càng tin tưởng, có lúc còn gửi gắm nhờ tôi làm một số việc.

Tôi tuy xuất thân từ ngành y, nhưng chưa thấy ai gầy dữ như ông. Hai mắt hõm sâu, xương má gồ lên, môi tái nhợt, xương sườn nhô hết ra, nhìn rõ từng chiếc.

Chuyện nhân quả báo ứng có thật: Chỉ cầu chết 

Lúc ông hít thở, xương nhô lên hạ xuống, cảm giác như chỉ cần bị va chạm nhẹ là gãy ngay. Chân và tay ông càng khiến người ta không dám nhìn, ốm tong teo, không còn chút thịt.

Do mật kết sạn nên ông phải mổ. Vì chứng bệnh tiểu đường nên vết thương cứ dây dưa mãi chẳng lành. Lại thêm bị nhiễm trùng, lở loét lây lan ra chung quanh. Nhìn hình dạng ông giống như cái đầu lâu gắn trên bộ xương, đủ để người ta sợ!

Tôi điều tra quá trình bệnh của ông, thấy theo lẽ thường, những người bệnh như ông là khó sống nổi. Vậy mà ông cứ sống trong thống khổ, bị hành đau cực cùng mà vẫn không chết.

Mặc dù ông thường bày tỏ với tôi, hiện giờ chỉ uớc duy nhất một điều là được chết! Nếu mà ông chết được thì xem như rất hạnh phúc. Nhưng “phần thưởng” này “trời” cũng hà tiện, không hào phóng tặng cho ông! Để ông sống mà mỗi giây mỗi phút đều bị giày vò thống khổ cực độ.

Có lần thèm chết quá, ông bỏ ăn uống, nhịn đói suốt mười mấy ngày, thân tâm suy đến cùng tận. Bác sĩ cho rằng ông chắc chắn phải chết không nghi! Nhưng ông vẫn cứ sống, không thể nào chết được!

Chuyện nhân quả báo ứng có thật: Gieo nhân cực ác

Bẵng đi một thời gian dài, tôi bận công tác bù đầu nên không đến gặp ông. Thế là một hôm ông nhờ hộ lý gọi điện mời tôi đến. Tối hôm ấy, ông thu hết sức tàn, kể cho tôi nghe câu chuyện bí mật của mình.

“Hơn mười năm trước, lúc ông vừa bắt đầu khai thác quặng mỏ. Do ít vốn nên cho người tới nhà ga, gạt những kẻ sống lang thang khờ khạo. Thuê họ xuống hầm làm việc cho ông.

Nhờ vậy Ông không phải trả lương, chỉ cần thuê bảo vệ trông chừng đám nhân công này là đủ. Khi họ đào được thùng vàng đầu tiên, ông cho lấp giếng than đó lại. Bỏ đám nhân công bị nhốt đói khát trong cảnh tối tăm, cuối cùng bọn họ đều chết ngạt!”

(Việc ông kể về sau được chứng thực. Khi công an đến chỗ đó khai quật, đã mang lên được hai mươi mấy bộ xương).

Chuyện nhân quả báo ứng có thật: Thần chết đi vắng

Ông Triệu nằm ở Y viện gần nửa năm. Sáu tháng này, cơ hồ mỗi phút mỗi giây ông đều trải qua nguy ách cực điểm. Nhưng bất kể xác thân bị giày vò đau đớn thế nào, ông vẫn không chết.

Toàn bộ gia sản ông đều đổ hết vào phí Y viện, người nhà cuối cùng cũng bỏ mặc ông. Ngày lẫn đêm, ông đau đớn kêu rên, mà thần chết vẫn chẳng thấy tăm hơi.

Do hệ miễn dịch suy giảm, vết thương trên thân không chỗ nào lành. Thảy đều bị nhiễm trùng, lở loét nát rữa. Đến cuối cùng, trên mình ông không còn tìm ra chỗ nào lành lặn, toàn thân lở loét nhầy nhụa.

Sau đó tôi không gặp lại ông. Nghe những y tá kể lại: Sau khi ông chết, lúc họ dùng tấm drap bọc thây ông chuyển đi thì xương cốt gãy vụn. Da thịt bị nát rữa ung mủ, hóa thành một đống bầy nhầy. Trước khi bỏ thây ông vào nhà xác thì hầu như nó đã biến thành đống xương thịt mục rữa.

Truyện thứ 10. Trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi

Tôi là một người vô thần. không theo bất kỳ tôn giáo nào. Nhưng bảy năm trước đã xảy ra một việc lạ lùng làm thay đổi cả cuộc đời tôi. Lúc ấy tôi mới kết hôn được sáu tháng.

Khuya hôm đó tôi thức dậy đi tiểu, đang mơ màng ngái ngủ, thì thấy có một bóng trắng lướt qua trước mặt. Tôi vội mở mắt ra nhìn thì thấy rõ ràng đó là một nữ quỷ mặc y phục trắng. Mặt dính đầy máu, nhem nhuốc…

Lúc đó tôi không biết vì sao mình có đủ dũng khí mà vung tay tát mạnh vào mặt nữ quỷ. Tôi đánh đến nó phải biến mất tiêu! Sau đêm đó, dù tôi không còn thấy nữ quỷ, nhưng cảm giác xui xẻo mỗi lúc một hiện rõ.

Quỷ ám

Trước tiên là chồng tôi bị bệnh, phải đi bác sĩ liên tục suốt mấy ngày. Sau đó thì đến phiên tôi, nửa đêm tự dưng đau bụng kịch liệt, phải tới bệnh viện chữa trị mới lành. Tôi cảm nhận rõ ràng là vợ chồng tôi đồng bị “trúng tà”. Để giải tà khí, chúng tôi phải đi khắp nơi tìm thầy trục quỷ. Nhưng chẳng ăn nhằm gì, hoạn nạn chẳng chút thuyên giảm, vẫn hoành hành y như trước. Khi đó chúng tôi vô cùng khổ não, nhưng chẳng tim ra cách giải quyết.

Tình cờ tôi gặp một người bạn là Phật tử khuyên tôi nên học Phật. Bạn bảo tôi hãy dùng Phật pháp để giải quyết vấn đề hóc búa này! Chúng tôi lâm vào cảnh bệnh nặng cần lương y, chẳng còn cách nào khác. Đành phải nhào tới ôm chân Phật, vậy là chúng tôi đến với Phật giáo.

Sau khi học Phật, chúng tôi bắt đầu ăn chay, phóng sinh, tụng “Kinh Địa Tạng”. Chúng tôi tụng được mấy mươi bộ Địa Tạng, thì một đêm nọ tôi nằm mơ thấy nữ quỷ hiện ra. Nó khóc lóc kể lể về thân thế cho tôi nghe.

Oan gia nhiều đời kiếp

Mấy trăm năm trước, cô ta là vợ của chồng tôi. Do kiếp đó cô treo cổ tự vận chết nên bị đọa vào cõi quỷ! Cô đã đi tìm chồng ngót mấy trăm năm, cho đến kiếp nảy thì phát hiện ra chồng mình ở đây. Sau khi tỏ tường sự thực, tôi tuy có cảm thông nhưng lòng rất phiền não. Bởi tôi đã hiểu vì sao chồng mình hay bị mộng tinh, di tinh. Té ra là tại con quỷ cái này, đêm nào nó cũng mò tới ngủ với chồng tôi!

Tôi nhất quyết không nhượng bộ. Biết con quỷ nửa đêm mới có thể đến mê hoặc chồng, nên tôi canh chừng. Cứ đến gần giờ đó là bắt đầu gõ chuông niệm Phật um sùm lên. Do trường kỳ lo lắng và ngày nào cũng nửa đêm để niệm Phật “hộ vệ” cho chồng. Sức khỏe ngày càng suy sụp, nhưng tôi vẫn gan lì: Ráng cầm cự “chiến đấu” như vậy ngót hai năm. Cuối cùng tôi thu được kết quả là: Bị bệnh tim và ngã lăn ra xỉu do kiệt sức!

Cứ thế này mãi tôi chịu hết thấu. Do bị khổ não hành hạ nên bệnh tim tôi càng kéo dài, khó thể sống an. Thế là đầu xuân, hai vợ chồng tôi đồng quyết định tháng Tư sẽ lên chùa xin xuất gia. Chủ yế là để chấm dứt cái trận chiến oan nghiệt kỳ khôi giữa người và quỷ.

Đánh nhau với quỷ

Chúng tôi chưa kịp thực hiện dự tính thì con quỷ cái đã nhanh nhẩu ra tay trước: Lần này ả nhập thẳng vào chồng tôi, hung dữ muốn giết tôi. Thú thực là mấy năm nay cùng ả chiến đấu ròng rã, tôi đã quá đuối mệt.

Ngay giây phút cận kề cửa tử, tôi cũng có ý chán nản muốn buông xuôi hết. Tôi nghĩ: Thôi thì cam nhận một đao của ả để kết thúc hết mọi ân oán. Chỉ mong ngay đây được vãng sinh Cực lạc, rũ bỏ hết mọi sầu đau.

Ngay lúc tôi nhắm mắt chờ con quỷ cái đâm cho một dao để kết liễu đời mình, thì bỗng nghe “Keng!” một tiếng. Hóa ra nữ quỷ đã ném dao xuống đất và rầu rĩ nói: “Giết mi rồi thi ta cũng phải xuống địa ngục! Thiệt là khổ phiền quá đi!”

Bây giờ đến lượt tôi phát khùng. Tôi túm lấy xác thân chồng tôi, đang còn hồn nữ quỷ gá ở bên trong, đập cho một trận tơi bời! Lúc này tôi mới hiểu thế nào là: “Cầu sống không được, cầu chết không xong!”

Soi tiền kiếp

Bị muộn phiền quá sức, tôi đành đem chồng gởi vào ngôi chùa gần đấy. Kết quả, sau đó đêm nào con quỷ cái cũng mò đến tìm tôi quấy nhiễu. Nó khóc kề rùm beng bên tai tôi, than rằng: Trong chùa có thần hộ pháp canh giữ, tôi không cách chi vào được.

Nữ quỷ quấy phá làm triền miên làm tôi chẳng tài nào ngủ được, Cuối cùng tôi đành thỉnh cầu sư phụ mở lòng từ bi, lập đàn siêu độ cho nữ quỷ giùm.

Bởi chùa này chuyên tu niệm Phật, nên mục đích siêu độ là cầu cho nữ quỷ được sinh về Cực Lạc. Pháp hội niệm Phật được tổ chức, mang lại hiệu quả thù thắng không gì sánh bằng!

Bởi dưới uy lực gia trì của Phật, tôi đã nhìn thấy tiền kiếp của bộ ba chúng tôi. Nhìn rõ mồn một những gi xảy ra trong đời quá khứ, tháo gỡ được gút mắc cho cả ba. Chuyện nhân quả báo ứng và chân tướng luân hồi ngàn năm cuối cùng được hé lộ như sau:

Nhân quả luân hồi: Kiếp thứ nhất

Nhiều kiếp rất lâu xa về trước, có một đôi chim uyên ương xinh đẹp ngụ nơi một cái hồ thanh vắng. Có một thằng bé hay tới hồ chơi và phát hiện ra đôi chim này. Trong thời gian dài, nó thường đem thức ăn đến cho chúng.

Ngày nọ khi tới hồ chơi, thằng bé chỉ thấy một mình con chim trống. Nó tìm khắp nơi và phát hiện chim mái bị một con chim ưng bắt mất.

Thằng bé chẳng biết làm sao, đành mang thức ăn tới an ủi con chim trống. Nhưng chim trống vẫn ủ rũ, không thèm động đậy. Hôm sau, thằng bé thấy chim trống vẫn nhịn đói, không chịu ăn bất cứ thứ gì. Ít ngày sau, chim trống chết. Thằng bé buồn rầu mang chim trống đi chôn, từ đó nó cũng không ra hồ chơi nữa.

Nhân quả luân hồi: Kiếp thứ hai

Mấy trăm năm trôi qua. Đôi chim uyên ương luân hồi vần xoay, cuối cùng cũng được tương ngộ trong cõi người: Chim trống đầu thai làm nam, chim mái đầu thai làm nữ và kết thành chồng vợ. Ngày nọ người chồng đi vắng, cô vợ và bà mẹ chồng phát sinh gây cãi. Vợ nhất thời nghĩ quẩn, treo cổ tự tử.

Nàng chết rồi thì đọa ác đạo, phải mang thân quỷ. Do chấp cứng vào tình yêu đối với chồng, nên nữ quỷ này một mực đi tìm chồng suốt nhiều kiếp. Qua từng lần, từng lần luân hồi lục đạo, cứ tìm mãi cho đến đời hiện tại!

Người chồng của nữ quỷ kiếp này sinh làm nam nhân. Còn tôi chính là thằng bé thuở trước, kiếp này mang thân nữ. Do nhân duyên chín muồi, tôi và nam nhân kết thành chồng vợ. Còn nữ quỷ đang quấy phá kia, chính là hậu thân của con chim mái. Suốt mấy năm trời cả ba chúng tôi cùng “quần thảo” nhau, giờ mới biết rõ chân tướng liên quan. 

Chuyển nghiệp

Dưới Phật lực cao thâm vi diệu, tôi bị chiết phục và phát sinh niềm tin tuyệt đối. Từ đó chúng tôi tu hành miên mật và hưởng được quả ngọt của công phu. Tổng kết lại lịch trình tu suốt 7 năm nay, tôi rút ra được mấy điều hay, xin lược ghi để chia sẻ cùng mọi người. Trường trai được 4 năm, tôi phát hiện ra ăn chay có mấy điểm tốt:

Trong họa có phước

Hồi đầu, tôi luôn cho rằng gặp nữ quỷ kia đúng là quá xui xẻo, quá bất hạnh! Vì bị mắc bệnh thì không thể làm việc kiếm tiền. Nhưng nhờ đây mà tôi hiểu rõ lý nhân quả luân hồi. Lại vì nữ quỷ này quấy phá liên tục khiến hai kẻ vô thần chúng tôi phải bước vào con đường học Phật.

Còn nữa, nhân vì nữ quỷ hằng ngày xuất hiện, tôi ngày nào cũng phải niệm Phật ngót mười tiếng đồng hồ. Mỗi ngày ít nhất phải niệm năm vạn biến trở lên, kiên trì như thế suốt ba năm. Nhờ vậy mà đại môn Tịnh Độ mở rộng trước mắt tôi, đúng là món quà vô giá! Cho nên, lúc nghịch duyên xuất hiện, cũng là thời cơ tốt giúp mình tu hành.

Nhờ nghịch cảnh mà học Phật

Con đường tu học của tôi đặc biệt kỳ quái. Do bị nữ quỷ ép ngặt, nên lúc nào tôi cũng phải đề tỉnh tinh thần để tu hành. Vì muốn mau mau thoát khỏi con quỷ cái này nên tôi phải dốc hết toàn lực mà niệm Phật.

Thuở mới bắt đầu, trước tiên tôi tụng kinh, niệm chú, buổi khuya tụng chú Lăng Nghiêm. Sáng tụng kinh Di Đà, 9 giờ tụng “ kinh Địa Tạng”. Chiều tụng “kinh Kim Cang” và ba biến chú Đại Bi. Tối còn tụng một bộ “kinh Địa Tạng” nữa. Tôi vốn lả kẻ vô thần, những chuyện nhân quả báo ứng vốn không tin. Do bị quỷ phá mà biến thành tín đồ ngoan đạo.

Tôi kiên trì thực hành mới gần một năm thì vào buổi sáng nọ. Khi tôi tụng kinh vừa đến Hồi hướng thì bị nữ quỷ che kinh quấy nhiễu. Điều này khiến tôi rất buồn và tuyệt vọng, vì thấy nữ quỷ không sợ kinh chú. Thực ra không phải kinh chú không linh mà do tôi mới hành trì. Tâm còn đầy tán loạn tham sân si nên không thể cảm ứng ngay được.

Suýt nhập ma vì tu lạc

Sau đó chúng tôi tìm thuê một ngôi nhà nơi hoang sơn, ở đó suốt sáu tháng ròng chuyên tu “tĩnh tọa quán tưởng”. Lần đầu tiên tu quán, chúng tôi quán “Vô Lượng Thọ Kinh”. Hễ mặt trời mọc thì ngồi quán, khi hoàng hôn buông thì ngồi tĩnh tọa hai tiếng nhìn trời lặn. Ban ngày rảnh thì niệm Phật.

Quán tưởng được mấy tháng, chẳng thu chút kết quả nào, đã vậy còn tu lạc! Bởi vì vừa nhắm mắt thì thấy một phiến tối đen. Tệ hơn nữa là tính khí nóng nảy phát sinh càng mạnh và tôi nhìn thấy quỷ mỗi lúc càng rõ hơn. Chúng tôi ráng tu chừng nửa năm thì chịu hết nổi, cuối cùng đành cuốn gói “thu cờ” quay về.

Tụng kinh chú, tĩnh tọa, quán tưởng gần hai năm xem ra chẳng ổn. Tôi quay sang chuyên niệm sáu chữ hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Được ít hôm hốt nhiên phát hiện ra: Chỉ cần nửa đêm tôi thức dậy chí thành niệm Phật, thì nữ quỷ tuyệt đối chẳng dám đến gần giường!

Bản Nguyện Niệm Phật là Vua trong các Pháp

Có lúc vào mùa hạ, buổi tối tôi đi tản bộ, vừa bước, vừa niệm, rất bình an. Có khi gặp quỷ, thì cũng thấy chúng lui vào hai bên lề đường. Chúng còn quỳ xuống chắp tay vô cùng cung kính. (Đúng là niệm Phật, thánh hiệu hiện tiền khiến quỷ tôn kính lui xa)

Tháng 3 năm 2010, nhờ đại nhân duyên, tôi gặp được “Bản Nguyện Niệm Phật”. Hiểu rõ tư tưởng Tịnh độ của Đại sư Thiện Đạo, nên tôi càng hiểu rõ thánh hiệu vi diệu. Lúc đó mới biết phương pháp tu tập trước đây của mình không có kết quả là do không phù hợp.

Bởi chúng tôi căn cơ tệ lậu, tập khí xấu còn nhiều. Nhờ tin sâu vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà mà biết chắc chắn rằng: “Nếu mình niệm Phật chuyên nhất, không tu tạp, chắc chắn sẽ vãng sinh Cực Lạc”.

Do quá khổ, mới khát khao mong được giải thoát ngay trong đời này. Vì vậy mà chúng tôi dốc lòng niệm Phật trong mọi thời khắc: Đi, đứng, ngồi, nằm… bất kể thời gian, cứ niệm chuyên nhất không rời, ráng tạo nghiệp chánh định.

Thành Tựu

Qua thời gian dài niệm Phật, chuyển biến lớn đà hiển hiện, nhất là nơi chồng tôi. Anh do trường kỳ sống cùng quỷ nên thần trí mê mờ, mặt bị ám đen. Từ lúc anh biết nhiếp tâm tu, kiên trì niệm Phật, thì đêm ngủ bắt đầu an lành. Thân thể cũng bắt đầu hồi phục bình thường, mặt hết xám đen mà trở nên sáng rỡ.

Lúc mới tu, hễ anh vừa niệm Phật là sinh buồn ngủ, nhưng hiện nay có thể niệm cả ngày. Dù nữ quỷ không hề muốn buông tha cho anh. Nhưng dưới ánh hào quang nhiếp hộ của Phật A Di Đà, ả không thể đến gần.

Ả cũng hết tìm tôi quấy rầy và tôi cũng phát hiện những vướng mắc, luyến ái trong lòng mình cũng phai nhạt đi. Tự nguyện buông hết mọi ưu tư chấp trước, phó thác tất cả cho Phật xếp đặt an bài. Nhờ vậy mà tâm an, tôi trở nên hạnh phúc!

Thay cho lời kết

Khi mới đến với Phật giáo. Tôi từ tâm thái tạp hạnh, tạp tu mà tiến dần đến niệm Phật chuyên nhất, tạo nghiệp chánh định.

Nhờ hiểu rõ và tin sâu rằng: Nếu chuyên tâm niệm Phật, chắc chắn được vãng sinh! Vì vậy mà tôi kiên định nơi câu niệm Phật, sau đó còn tích cực giới thiệu mọi người pháp môn này.

Xem thêm:

Cũng nhờ niệm Phật chuyên nhất mà tôi được Phật lực gia trì khiến tâm tư mở sáng. Hiểu rõ nhân quả ba đời ngàn năm, nhớ được tiền kiếp cả ba đứa.

Tôi cũng từng được thấy thánh dung Phật A Di Đà và chiêm ngưỡng thánh cảnh Tây phương, Tất cả đều nhờ uy đức của câu Phật hiệu ban tặng cho. Xin chia sẻ mọi người câu chuyện của tôi. Mong quý vị xem xong đều được lợi ích.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *