Tục xăm mình là một trong những đặc trưng quan trọng nhất của tộc Việt và của người Việt trong các ghi chép lịch sử của cả Việt Nam và Trung Quốc. Tục xăm mình không chỉ có ở riêng người Việt và tộc Việt, mà còn xuất hiện tại khắp các dân tộc trên các châu lục của thế giới, nhưng trong vùng Đông Á và vùng Đông Nam Á, các dân tộc thực hành tục xăm mình đều ít nhiều có nguồn gốc và sự liên hệ với tộc Việt và văn hóa Đông Á cổ đại.

Việc tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa, cách thức thực hành cũng như các hoa văn được sử dụng để xăm mình, sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin cơ bản và toàn cảnh nhất về phong tục này của tộc Việt và của người Việt, từ đó hiểu thêm về gốc tích, ý nghĩa phong tục đặc trưng và quan trọng đã tồn tại và đi cùng người Việt trong một thời gian dài.

1. Nguồn gốc tục xăm mình:

Nguồn gốc tục xăm mình của cộng đồng tộc Việt được ghi chép sớm nhất trong truyện họ Hồng Bàng và truyện bạch trĩ, những câu truyện cổ được truyền lại từ thời Hùng Vương.

Truyện họ Hồng Bàng chép: “Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Vua nói rằng: “Giống sơn man và giống thủy tộc khác nhau, nên xâm phạm lẫn nhau”. Bèn khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình loài thủy tộc. Từ đó, dân không bị họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đó.”

Truyện họ Hồng Bàng đã chép rõ rằng tục xăm mình có nguồn gốc từ việc tránh “giao long” làm hại, “lấy mực xăm vào mình theo hình loài thủy tộc”. “Giao long” ở đây chính là cá sấu có rất nhiều trong địa bàn sinh sống của người Việt, cá sấu cũng chính là nguồn cảm hứng chính hình thành nên hình tượng Rồng trong văn hóa Đông Á cổ. <1>

Phong tục xăm mình là phong tục chung của cộng đồng tộc Việt, trải dài theo địa bàn có các cư dân tộc Việt sinh sống: từ Dương Tử tới Việt Nam.

Sử ký, Triệu Thế Gia chép:“Cắt tóc xăm mình, xăm vẽ lên cánh tay và mặc áo vạt hướng về phía trái, là dân Âu Việt. Răng đen khắc trán, đội mũ da cá, mặc áo khâu bằng chỉ to, là nước Đại Ngô.”<2>

Sử ký Tư Mã Thiên, Ngô Thái bá thế gia chép:“…Thái bá, Trọng Ung bèn chạy trốn đến đất Kinh Man, xăm mình cắt tóc“. <2>

Sử ký Tư Mã Thiên, Việt vương Câu Tiễn thế gia chép:“Tiên tổ của Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ của Hạ Vũ, được phong ở Cối Kê để phụng giữ tế tự vua Vũ.Xăm mình cắt tóc, cắt cỏ hoang rồi dựng ấp ở đó.

Đang xem: Tìm hiểu về tục lệ xăm mình của người việt cổ

” <2>

Ở đảo Hải Nam, người Chu Nhai (Hải Nam) cũng có phong tục xăm mình như phong tục chung của tộc Việt:“… Nhìn ra xa thấy châu Chu Nhai… Nhân dân có khoảng hơn 10 vạn nhà…, xõa tóc, xăm mình, con gái phần nhiều tướng mạo đẹp, làn da trắng trẻo, tóc dài, tóc mai đẹp”<3>

Như vậy thì phong tục xăm mình là phong tục chung của cộng đồng tộc Việt, được khởi nguồn từ thời kỳ Hồng Bàng, sau đó phong tục này tiếp tục được kế thừa trong các vùng có cư dân tộc Việt sinh sống. Người Việt thời kỳ tự chủ vẫn tiếp tục kế thừa phong tục xăm mình của tộc Việt trong các triều đại Lý – Trần.

2. Ý nghĩa của tục xăm mình:

Trong truyện họ Hồng Bàng, thì truyện chép rằng “lấy mực xăm vào mình theo hình loài thủy tộc”, điều này có nghĩa tục xăm mình là một hình thức để bảo vệ người Việt khi xuống nước, đây mới chỉ là ý nghĩa bề ngoài của nó, tìm hiểu sâu hơn về tục này từ các ghi chép lịch sử, chúng ta sẽ thấy đuợc ý nghĩa thực sự của phong tục xăm mình trong thời kỳ cổ đại của cộng đồng tộc Việt.

Truyện Bạch Trĩ chép: “Chu Công hỏi: “Tại sao dân Giao Chỉ cắt tóc ngắn, để đầu trần, xăm mình, đi chân đất như vậy là cớ sao?”. Sứ thần đáp rằng đáp: “Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng. Xăm mình để giống hình Long Quân bơi lội dưới sông loài giao long không phạm tới. Đi chân đất để tiện leo cây. Cày bằng dao, trồng bằng lửa. Ău trầu cau để trừ ô uế cho nên răng đen”.”

Truyện Bạch Trĩ chép về việc “xăm mình giống hình Long Quân” cho thấy phong tục xăm mình của người Việt bên cạnh tính thực dụng để “loài giao long không phạm tới”, nó còn mang một ý nghĩa về mặt tâm linh, Long Quân là giống Rồng, xăm mình giống hình Long Quân tức là xăm mình hình Rồng, đây là một hình thức thực hành văn hóa tâm linh trong nền văn hóa lưỡng hợp Tiên – Rồng của tộc Việt, xăm mình hình Rồng và đội mũ lông chim.

*

*
*

Hình tượng Rồng đơn, Rồng đôi cùng với chim Tiên trên các trống đồng và đồ đồng Đông Sơn.

Tài liệu của Trung Quốc cũng cho chúng ta thấy rằng người Việt thường xăm mình giống như loài Rồng, tương đồng với tất cả những ghi chép của người Việt từ thời cổ đại cho tới các triều đại Lý – Trần.

Sử ký, Chu Bản kỷ, Tập giải, Ứng Thiệu nói:《史记·周本纪》裴骃《集解》:“应劭曰:’越人常在水中,故断其发、文其身,以象龙子,故不见伤害也。: – Tạm dịch: “Người Việt thường ở dưới nước, nên cắt tóc, xăm mình giống như loài Rồng để không bị hại”.

*

Các hình Rồng đôi trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn.

Trong thời kỳ Lý – Trần, thì người Việt vẫn tiếp tục kế thừa ý nghĩa từ thời cổ đại, khi phong tục xăm mình của người Việt cũng chính là xăm mình hình Rồng giống như phong tục thời Hồng Bàng.

Đại Việt sử ký toàn thư chép về thời Anh Tông nhà Trần:“Thượng hoàng có lần ngự cung Trùng Quang, vua đến chầu, quốc công Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói: “Nhà ta vốn là người hạ lưu (thủy tổ người Hiền Khánh), đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc”.

Xem thêm: Chương Trình Học Viện Ngôi Sao : Thư Chưa Gửi Anh, Học Viện Ngôi Sao 2014

<4>

Đại Việt sử lược chép vào thời Thánh Tông nhà Lý:“Cấm những người đầy tớ trong nhà thích (xăm) hình con rồng trên mình.”<5>

Đại Việt sử lược chép về thời Anh Tông nhà Lý:“Những nhà quyền thế không được tự tiện thu dùng các hạng người trong dân chúng. Các bậc vương hầu trong lúc đêm tối không được qua lại trong thành. Kẻ gia nô của bậc vương hầu không được xăm hình rồng ở nơi ngực.”<5>

Đại Việt sử ký toàn thư chép về thời Nhân Tông nhà Lý: “Cấm nô bọc của các nhà dân trong ngoài kinh thành không được thích mực vào ngực, vào chân như cấm quân cùng là xăm hình rồng ở mình, ai phạm thì sung làm quan nô.”<4>

Như vậy, phong tục xăm mình của người Việt có ý nghĩa quan trọng về mặt tâm linh, người Việt xăm mình hình Rồng “giống Long Quân”, là một sự biểu hiện cho nền văn hóa vật Tổ lưỡng hợp Tiên Rồng của cộng đồng tộc Việt, cùng với đội mũ lông chim. Nó mang một ý nghĩa văn hóa rất sâu sắc, có thể nói là cốt lõi trong văn hoá của người Việt, không phải là một phong tục xuất hiện ngẫu nhiên hay biểu trưng cho một tộc người man rợ, không có văn minh.

3. Phong tục xăm mình trong thời nhà Trần:

Tới thời kỳ nhà Trần, phong tục xăm mình vẫn được người Việt tiếp tục kế thừa, các ghi chép lịch sử cho thấy đây là một phong tục rất quan trọng của người Việt, được người Việt rất ưa chuộng thực hành, trong đó chủ yếu là xăm mình hình Rồng, ở hầu hết các tầng lớp.

Đại Việt sử ký toàn thư chép về thời Anh Tông nhà Trần:“Thượng hoàng có lần ngự cung Trùng Quang, vua đến chầu, quốc công Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói: “Nhà ta vốn là người hạ lưu (thủy tổ người Hiền Khánh), đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc”. <4>

Phong tục xăm mình vào thời nhà Trần là một phong tục dành cho cả tầng lớp hoàng tộc, quan lại, quân lính và cả dân thường, không chỉ riêng tầng lớp hoàng tộc mới được thực hành phong tục này.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Lại hồi quốc sơ, quân sĩ đều xăm hình rồng ở bụng, ở lưng và hai bắp đùi, gọi là “thái long” (rồng hoa).Vì khách buôn người Tống thấy dân Việt ta xăm hình rồng, lỡ gặp gió bão thuyền đắm, thuồng luồng không dám phạm tới, cho nên gọi là “thái long”.”<4>

Theo lời chua trong Đại Việt sử kỷ bản kỷ thì, từ đời nhà Trần trở về trước, nước ta vẫn có tục cắt tóc, vẽ mình. Đến đời nhà Trần, nhân dân ở mạn hạ lưu thích mạnh mẽ, nên vẫn cắt tóc xăm trán, nhất là những đô vật ở huyện Giao Thủy không thay đổi tục cũ, vì họ thấy như thế là mạnh mẽ. (Chú thích trong Cương Mục) <6>

Tới thời Anh Tông nhà Trần, thì vua sợ xăm mình, nên đã trốn khi tới lượt mình xăm hình. Từ Anh Tông trở đi, phong tục xăm mình mới không được tiếp tục trong các vị vua các triều đại.

Đại Việt sử ký toàn thư chép về thời Anh Tông: “Bấy giờ thợ xăm đã đợi mệnh ở ngoài cửa cung. Vua rình lúc Thượng hoàng quay nhìn chỗ khác, về ngay cung Trùng Hoa. Một lúc lâu, Thượng hoàng hỏi Quan gia đâu rồi, các quan tả hữu thưa là đã về cung Trùng Hoa. Thượng hoàng bảo: “Quan gia đã trốn rồi chăng? Thì xăm cho Huệ Vũ Quốc Chẩn vậy”. Quốc phụ có xăm hình rồng ở đùi, mà về sau nối ngôi không xăm ở đùi nữa là bắt đầu từ Anh Tông.” <4>

Quân sĩ, dân thường vẫn tiếp tục kế thừa phong tục xăm mình trong một thời gian sau đó, nhưng tới thời Minh Tông (năm 1323), thì tục này bắt đầu dần dần bị bỏ, khi quân lính cũng không còn tiếp tục được xăm mình như phong tục cũ nữa.

Đại Việt sử ký toàn thư, Minh Tông hoàng đế chép: “Bấy giờ tuyển chọn các quân, lấy người béo trắng làm hạng trên, cho nên quân sĩ không xăm mình nữa là bắt đầu từ đấy.” <4>

Tới thời nhà Hồ, thì tục xăm mình đã không còn phổ biến, các hình xăm đã được sử dụng để đánh dấu tội nhân, ý nghĩa văn hóa của nó đã bị mất đi, thay thế bằng những ấn tượng xấu dành cho những người xăm mình từ các triều đại sau, thường được gắn với hình ảnh những tội nhân cho tới tận ngày nay.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Các nô đều thích vào trán để đánh dấu: Quan nô thì thích hình viên ngọc hỏa châu, có khi lấy bổ sung vào quân điện tiền; của công chúa thì thích hình cây dương, cây đường; của đại vương thì thích 2 khuyên đỏ, của quan nhất phẩm thì thích 1 khuyên đen; của quan nhị phẩm trở xuống thích 2 khuyên đen.”

4. Các vị trí xăm mình của người Việt:

Vị trí xăm mình của người Việt cũng rất đa dạng, có hai vị trí được xăm mình chính, là xăm mặt và xăm thân mình, phong tục này được ghi chép trong cả các tài liệu Trung Quốc và Việt Nam.

Kinh Lễ – Vương Chế viết: “東方曰夷被發文身又曰,南方曰蠻雕題交趾” – “Đông phương viết di bị phát văn thân hựu viết. Nam phương viết man điêu đề giao chỉ.”

Câu trên nói về việc tộc Việt phía Nam có phong tục xăm mình, cả văn thân (xăm trên cơ thể) và điêu đề (xăm trên trán).

Xem thêm: Việt Nam Mua Tên Lửa Hành Trình Của Ấn Độ, Việt Nam Mua Sắm Vũ Khí Của Ấn Độ Với Mục Đích Gì

Vị trí xăm trên thân mình của người Việt là rất đa dạng, trong ghi chép lịch sử của vùng đất tộc Việt cũ (hạ lưu Dương Tử), thì người Việt “xăm mặt, vẽ mình” tương tự như ghi chép của Kinh Lễ, bên cạnh đó thì họ còn sử dụng hình vẽ lớn bé, tay phải, tay trái để phân biệt trên dưới.

Sử Ký, Đông Di liệt truyện chép rằng: “Đàn ông (nước Oa, vùng hạ lưu Dương Tử) đều xăm mặt vẽ mình, dựa vào hình xăm ở tay trái tay phải lớn hay bé để phân biệt trên dưới.”

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *